Khi con bắt đầu ê a đôi ba tiếng, mẹ đã háo hức dạy con nói, chỉ trỏ nhận biết con vật, đồ vật và mọi thứ xung quanh. Nhờ đó, bé có thể sớm hiểu biết, không chỉ nói sõi hơn mà còn có thể dùng đúng từ ngữ
6-8 tháng là mốc khởi đầu cho sự phát triển ngôn ngữ của bé. 1-2 tuổi là giai đoạn của sự phát triển ngôn ngữ. Và năm 3 tuổi là lúc ngôn ngữ của trẻ bùng nổ với số lượng từ tăng đáng kể và tư duy ngôn ngữ logic. Khoảng thời gian này, thường thì mẹ dạy con học nói, bập bẹ phát âm và ghép âm với vật thể.
Để đồng hành cùng con, mẹ phải học cách trò chuyện tíu tít cả ngày. Nhưng phải nói những gì cho thật hiệu quả với tâm lý và tầm nhận thức của con trong độ tuổi này bây giờ?
Hãy tham khảo những câu dạy con học nói dưới đây để biết cách đồng hành cùng tuổi bi ba bi bô của con mẹ nhé.
Học nói về động vật
1. Thỏ trắng nhỏ nhắn, trắng, trắng, trắng. Thỏ có hai tai dựng lên. Thỏ thích ăn củ cà rốt và rau xanh. Thỏ nhảy, nhảy, nhảy cũng thật là đáng yêu làm sao!
2. Một, hai, ba, bốn, năm. Ta lên đồi đi tìm con hổ, nhưng con hổ không có ở đó. Ta lại tìm thấy một con sóc nhỏ. Rồi lại một vài con sóc nhỏ khác nữa. Hãy đếm xem nào: Một, hai, ba, bốn, năm.
3. Con chuột nhắt, đi đến chân đèn, ăn cắp dầu. Con mèo từ đâu xuất hiện, kêu meo meo, meo meo làm chuột ta chạy mất.
4. Một con chó, ngồi canh cổng, đôi mắt đen và thèm gặm xương.
5. Một con ếch có một cái miệng rộng, hai mắt to tròn và có bốn chân. Hai con ếch có hai cái miệng rộng, bốn mắt to tròn và có tám chân.
6. Gà trống gáy, gà trống gáy thật sự rất đẹp. Bộ lông sặc sặc, mào đỏ chót, chân vàng ươm và cổ sáng bóng. Ai cũng muốn được ra oai như gà trống.
7. Chú vịt nhỏ, tên là Gaga. Chú biết đi và thích đu đưa, lắc cái mông xinh đến dòng sông nhỏ, tắm tắp vui rồi lên bờ hong khô.
8. Này, này, này, có ba con kiến đếm cơm. Bạn có một, tôi có một, còn một nữa đâu rồi. Con kiến còn lại cười: “Một đã nằm trong bụng mất rồi”.
9. Bé nòng nọc có cái đuôi dài, bơi xung quanh ao để tìm mẹ. Mẹ của em đâu? Ở đây chứ đâu! Ở đây chứ đâu và đó là một chú ếch to lớn rồi.
10. Vịt con lạch bạch, nhắc em cắt móng. Gà kêu cục tác bảo em lau mũi. Mèo kêu meo meo giục em rửa mặt. Chó sủa ẳng ẳng nhắc em chớ làm bẩn áo quần.
Học nói về số đếm
1. Một, hai, ba, leo lên núi. Bốn, năm, sáu ngã lộn nhào. Bảy, tám, chín vỗ tay. Xòe bàn tay ra đếm đủ chục ngón.
2. Pí po xình xình, pí po xình xịch. Hàng ghế trên là cụ bà, xin trả đồng 50 xu. Hàng ghế dưới là anh trai, xin trả đồng 30 hào.
3. Số 1 giống như một cây bút chì để con cầm viết. Số 2 giống như một con vịt, bơi trong nước. Số 3 giống như cái tai, nghe được âm thanh. Số 4 giống như một lá cờ nhỏ, bay trong gió. Số 5 như một cái móc câu, có nét ngang trên đầu. Số 6 như quả lê có cái cuống xinh. Số 7 như chiếc gậy. Số 8 như bánh xoắn. Số 9 như quả lê quay ngược đầu. Số 10 như cái viết đặt cạnh quả trứng.
4. Một căn phòng, hai miếng bánh, ba cái ghế, bốn cái muỗng, năm chiếc ly, sáu cái bát súp, bảy con thỏ, tám con voi, cộng với một ít hoa là đủ làm em bé vui.
5. Một ngón tay, lúc lắc lúc lắc thành con sâu bướm, bò, bò. Hai ngón tay, lúc lắc lúc lắc thành con thỏ trắng nhỏ, nhảy, nhảy. Ba ngón tay, lúc lắc lúc lắc thành một con mèo nhỏ, meo meo. Bốn ngón tay, lúc lắc lúc lắc thành những con cua nhỏ, leo trèo, leo trèo. Năm ngón tay, lúc lắc lúc lắc thành hoa và bướm, bay, bay.
Dạy con học nói khi ru bé ngủ:
1. Em ơi, ngủ thật mau, trời xanh yên ả, con thuyền nhỏ khẽ lắc lư, chim không bay, chó ngưng sủa, để em bé của mẹ ngủ ngon.
2. Trăng tỏ lên cao, yên tĩnh ngoài cửa sổ, mẹ muốn làm em bé ngoan, khẽ khàng vào giấc ngủ.
3. Lắc, lắc, lắc, bé ơi ngủ ngon! Đặt hai bàn tay nhỏ lên mình, lắc, lắc, lắc, bé yêu đã ngủ ngon lắm rồi.
4. Bé nào ngoan, bé nào ngoan, uống nhiều sữa và uống no căng. Con mắt ríu, con mắt no tròn, em mẹ lười chỉ muốn ngủ cả đêm.
5. À a à ơi. Trưa hè bên chiếc võng đưa. Mẹ ru con ngủ ơ, ơ giữa trưa bóng tròn. À a à ơi. Đức mẹ nặng nê là con nhớ công cha, là công cha đức mẹ.
Mong rằng với những gợi ý trên đây, chuyện mẹ dạy con học nói sẽ không còn là chuyện làm khó cho mẹ hay bất kỳ ai trong gia đình nữa nhé!